CHƯƠNG TRÌNH MÁY TÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ SÁNG CHẾ LIÊN QUAN CHƯƠNG TRÌNH MÁY TÍNH CỦA VIỆT NAM

Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể.

1. Chương trình máy tính là gì?

“Chương trình là một tập hợp các câu lệnh được mô tả bằng bất kỳ ngôn ngữ, mã hay hệ thống ký hiệu nào và được thể hiện hoặc lưu trữ trong các vật mang tin (có hoặc không kèm theo các thông tin liên quan), được dùng trực tiếp hoặc dùng gián tiếp sau khi qua một hoặc hai khâu sau:

– Chuyển đổi sang một ngôn ngữ, mã, hệ thống ký hiệu khác;

– Tái tạo sang một vật mang tin khác; làm cho một dụng cụ có khả năng xử lý thông tin thực hiện một chức năng nào đó.”

Theo khoản 1 Điều 22 Luật SHTT 2005:

“Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể“.

Qua các khái niệm trên cho ta thấy, dưới góc độ kỹ thuật chương trình máy tính không chỉ đơn thuần là các phần mềm máy tính được sử dụng trong MĐT mà còn được sử dụng trong các thiết bị điện tử, viễn thông khác nữa. Trong khi đó, dưới góc độ pháp lý thì hai khái niệm trên đã bộc lộ sự không đồng nhất: trong khi Quyết định 128/QĐ-TTg quy định phạm vi của CTMT không chỉ là những chương trình được sử dụng trong MĐT thì khoản 1 điều 22 Luật SHTT 2005 giới hạn trong CTMT chỉ sử dụng cho MĐT.

Tuy nhiên, về nguyên tắc thì các quy định trong Luật SHTT vẫn có giá trị pháp lý cao hơn Quyết định 128/QĐ-TTg nên có thể hiểu CTMT là chương trình được lập trình để điều khiển hoạt động của MĐT, là một chuỗi thông tin chứa các lệnh điều khiển máy tính thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ nhất định. CTMT được xây dựng dưới dạng mã nguồn trên cơ sở một ngôn ngữ lập trình nhất định và thường được lưu trữ dưới dạng mã máy.

Nói cách đơn giản, Chương trình máy tính là một dạng hoạt động thủ công nhưng được chuyển đổi sang dạng yêu cầu thành một thứ mà máy tính có thể thi hành được. Trong thực tiễn thường có sự nhầm lẫn giữa khái niệm CTMT và khái niệm PMMT. Đối với nhiều người sử dụng, khái niệm CTMT và PMMT hầu như không có gì khác biệt.

Dưới góc độ kỹ thuật, kết cấu của PMMT bao gồm ba phần: phần thứ nhất là CTMT gồm mã nguồn và mã máy, phần thứ hai là cấu trúc dữ liệu gồm cấu trúc làm việc và cấu trúc lưu trữ; phần thứ ba là các tài liệu liên quan gồm hướng dẫn kỹ thuật, tài liệu tham khảo và tài liệu phát triển. Trong ba yếu tố trên thì CTMT là yếu tố hạt nhân quan trọng nhất, nó giống như vai trò của động cơ trong một cỗ máy, các yếu tố còn lại là dữ liệu và tài liệu chỉ đóng vài trò bổ sung cho CTMT.

2. Phân biệt Chương trình máy tính và phần mềm

Để làm rõ sự khác nhau giữa chương trình máy tính và phần mềm, có thể đưa ra 3 góc nhìn như sau:

– Dưới cách tiếp cận theo góc độ pháp lý:

Căn cứ theo khoản 1 Điều 22 Luật Sở hữu trí tuệ: “Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể.”

Căn cứ theo Luật Công nghệ thông tin năm 2006, sửa đổi bổ sung 2017 khoản 12 Điều 4: “Phần mềm là chương trình máy tính được mô tả bằng hệ thống ký hiệu, mã hoặc ngôn ngữ để điều khiển thiết bị số thực hiện chức năng nhất định”.

Có thể thấy, “Chương trình máy tính” và “Phần mềm” là hai khái niệm pháp lý không tương đồng, không thể thay thế cho nhau. “Phần mềm” mang nội hàm rộng hơn “Chương trình máy tính” vì trong định nghĩa luật định xác định phần mềm bao gồm cả chương trình máy tính.

– Dưới cách tiếp cận về kỹ thuật lập trình, phần mềm bao gồm chương trình máy tính, hướng dẫn cài đặt và các tài liệu ghi chú, trong một phần mềm bao gồm từ hai chương trình trở lên. Có thể thấy mối tương quan giữa phần mềm và chương trình máy tính như sau: “Phần mềm” là một sản phẩm trong khi đó “Chương trình máy tính” là một bộ phận có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ để thực hiện các chức năng quan trọng nhất trong phần mềm.

– Dưới góc nhìn của người sử dụng, phần mềm và chương trình máy tính đều hướng đến chức năng sử dụng của sản phẩm nên thuật ngữ phần mềm được sử dụng khá phổ biến vì tính ngắn gọn, dễ phân biệt với phần cứng của máy tính (hardware).

Nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, thuật ngữ pháp lý ghi nhận bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là chương trình máy tính.

3. Chương trình máy tính được bảo hộ dưới dạng gì?

Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể (theo khoản 1 Điều 22 Luật Sở hữu trí tuệ 2005).

Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy.

Bên cạnh đó, Điều 59 Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế bao gồm:

– Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học;

– Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính;

– Cách thức thể hiện thông tin;

– Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ;

– Giống thực vật, giống động vật;

– Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không phải là quy trình vi sinh;

– Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật.

Theo đó, chương trình máy tính thuộc đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế được quy đinh trong Luật Sở hữu trí tuệ.

Như vậy, pháp luật Việt Nam chỉ bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính mà không được bảo hộ dưới dạng các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp.

Để được tư vấn chi tiết, vui lòng liên hệ LegalTech.