Theo quy định tại khoản 3 Điều 107 Bộ luật lao động 2019 (“BLLĐ”) Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 01 năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây:
- Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản;
- Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước;
- Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời;
- Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước, do hậu quả thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất;
Tuy nhiên, Ngày 23/3/2022, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 về số giờ làm thêm trong 01 năm, trong 01 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội (“Nghị quyết 17”). Đến ngày 26/4/2022, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (“LĐTB&XH”) ban hành Công văn số 1312/LĐTBXH-ATLĐ hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 17 (“Công văn 1312”) trong đó, lưu ý một số nội dung sau đây:
- Các trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 01 năm là các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyếtvà khoản 3 Điều 107 Bộ luật Lao động.
- Tất cả trường hợp được làm thêm tối đa 300 giờ trong 01 năm đều được làm thêm từ trên 40 giờ đến 60 giờ trong 01 tháng kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2022.
- Khi tổ chức thực hiện quy định về số giờ làm thêm theo Nghị quyết vẫn phải tuân thủ đầy đủ các quy định khác về làm thêm giờ tại BLLĐ và các văn bản hướng dẫn BLLĐ (quy định về giới hạn số giờ làm thêm trong ngày; tiền lương phải trả khi làm thêm giờ; các nội dung về sự đồng ý của người lao động tham gia làm thêm; thông báo khi tổ chức làm thêm trên 200 giờ trong 01 năm;…).
- Khi tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong 01 năm người sử dụng lao động phải thông báo cho Sở Lao động – Thương binh và Xã hội theo quy định tại khoản 4 Điều 107 BLLĐvà Điều 62 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP, cụ thể:
Trong vòng 15 ngày kể từ ngày thực hiện việc tăng giờ làm thêm, người sử dụng lao động cần gửi Thông báo (theo Mẫu số 02/PLIV Phụ lục IV Nghị quyết 145/2020/NĐ-CP) về việc tăng thời gian làm thêm đến các nơi sau:
- Sở LĐTB&XH cấp tỉnh/thành phố nơi tổ chức làm thêm giờ; và
- Sở LĐTB&XH nơi đặt trụ sở chính nếu trụ sở chính đóng trên địa bàn tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương khác nơi tổ chức làm thêm giờ.
- Các quy định tại Nghị quyết 17 được thực hiện cho đến hết ngày 31/12/2022, trừ trường hợp Quốc hội quyết định kéo dài thời gian thực hiện. Vì vậy, người sử dụng cần đảm bảo tổng thời gian làm thêm bắt đầu từ 1/1/2022 đến 31/12/2022 không quá 300 giờ.
Như vậy, với Nghị quyết 17, trong năm 2022 người sử dụng dù không thuộc trường hợp tại Khoản 3 Điều 107 BLLĐ vẫn có thể sử dụng người lao động làm thêm giờ với tổng thời gian lên đến 300 giờ/năm và tối đa 60 giờ/tháng nếu thỏa được sự đồng ý của người lao động và những người lao động không thuộc các trường hợp sau đây:
- Người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi;
- Người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trởlên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;
- Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
- Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.